Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá - Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân quê. Tác giả tuy không chỉ đích danh, bản quán nơi cư ngụ từng người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc "nước mặn đồng chua" và "đất cày lên sỏi đá" thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người lính. Kết bài:* Cảm nghĩ về của em:- Thích thú, yêu dấu, thêm bó cùng với quê nhà.II. BÀI LÀMHồi đầu xuân năm mới học tập, tía em bao gồm hứa rằng trường hợp em đạt danh hiệu Học sinch tốt thì tới hè cổ cha đã đến về thăm quê. Em sẽ cố gắng tìm mọi cách để biến NỐI LỐI : Khi hỏi lại xóm giềng tôi mới biết Cô theo chồng đã được bốn trăng qua Mình dám đâu sai hẹn với người ta Mà họ đành đoạn bỏ nhà đi xứ khác VỌNG CỔ Câu 4. Tôi vác đôi chiếu bông mà cõi Những nội dung kiến thức trình bày trong tài liệu là nội dung cơ bản, ngắn gọn, giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản để nâng cao chất lượng tốt nghiệp lớp 9 và tỷ lệ thi đầu vào lớp 10. Quốc lộ 54 kẹt cứng, nhiều người 'không hiểu nổi' ở quê mà cũng kẹt xe như Sài Gòn. TTO - Hai ngày liên tục, tuyến quốc lộ 54 đoạn qua huyện Bình Tân - Đất nước độc lập, thống nhất, chúng tôi trở về quê nhà, có những người lính người đồng đội đã mãi mãi hi sinh đã nằm xuống nhưng tình đồng chí của chúng tôi vẫn mãi vẹn nguyên và đậm đà như thế. - Tôi mong rằng máu sương của chúng tôi sẽ được thế hệ sau trân trọng và phát triển để dựng xây đất nước ngày càng phát triển và giàu đẹp hơn nữa. 8tMg. Bài Thơ Đồng Quê [Trần Đăng Khoa] ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa ✅ Dành Tặng Bạn Đọc Những Bài Thơ Hay Nhất Của Trần Đăng Khoa. Nội Dung Bài Thơ Đồng QuêÝ Nghĩa Bài Thơ Đồng QuêCảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đồng Quê Của Trần Đăng Khoa Hay NhấtChùm Thơ Hay Của Trần Đăng Khoa☛ Mưa☛ Buổi Sáng Nhà Em☛ Hạt Gạo Làng Ta☛ Cây Dừa☛ Em Vào Đại Học☛ Gửi Theo Các Chú Bộ Đội Bài thơ Đồng quêTác giả Trần Đăng Khoa Làng quê lúa gặt xong rồiMây hong trên gốc rạ phơi trắng đồngChiều lên lặng ngắt bầu khôngTrâu ai no cỏ thả rông bên trờiHơi thu đã chạm mặt ngườiBạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầmLuống cày còn thở sùi tămSương buông cho đống hoang nằm chiêm baoCó con châu chấu phương nàoBâng khuâng nhớ lúa đậu vào vai em… Tặng Bạn ❤️️ Bài Thơ Mưa Trần Đăng Khoa ❤️️ Nội Dung, Cảm Nhận Ý Nghĩa Bài Thơ Đồng Quê Bài thơ nói về cảnh đẹp ở quê hương cũng như thể hiện tình yêu quê hương và niềm tự hào về dân tộc của nhà thơ. Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đồng Quê Của Trần Đăng Khoa Hay Nhất Giúp bạn đọc làm bài văn cảm nhận, phân tích bài thơ đồng quê của Trần Đăng Khoa hay với những gợi ý cốt lõi như sau Những cảm nhận về bức tranh “đồng quê “ thanh bình thơ mộng và qua đó cảm nhận được cái tình quê chan chứa của tác giả . Để có được những cảm nhận sâu sắc mà chân thành cần tập trung Cảm nhận về không gian và thời gian được nói đến trong bài thơ Đồng quê sau mùa gặt vào một chiều thu . Không gian được mở theo nhiều chiều cao , rộng , sâu , xa ,…tạo nên một không gian cảnh hư thực . Sự giao cảm giữa đất trời và vạn vật mây -hong- đồng rạ ; trâu – thả rông -bên trời ; hơi thu -chạm – mặt người ; sương -buông -đất hoang . Mượn cái động để tả cái tĩnh tạo nên một đồng quê yên ả , thanh bình ,giàu chất thơ . Nghệ thuật nhân hóa , cách sử dụng những động từ tạo nên cảnh làng quê sống động mà có hồn . Tập trung khai thác giá trị biểu cảm của hai câu thơ cuối Từ “ có “ đặt đầu câu lục khẳng định sự tồn tại rất thực của con vật biểu trưng của đồng quê. Sự cảm nhận hết sức tinh tế của nhà thơ trong cái “ bâng khuâng “ của con châu chấu nhớ lúa đậu vào tay emTình quê được tác giả thể hiện hết sức hồn nhiên trong sáng mà chan chứa , mà thấm đẫm hồn quê .. Về phương pháp biết vận dụng kiểu bài phân tích tác phẩm để phân tích các tín hiệu nghệ thuật có trong bài thơ và thông qua đó nêu những cảm nhận của mình . Chú trọng kỹ năng bình thơ , sử dụng được các thao tác trực tiếp bộc lộ cảm xúc , ấn tượng , diễn ý , phân tích hình ảnh , so sánh , đối chiếu . Văn gọn mạch lạc , có cảm xúc , có đoạn hay . Hạn chế được lỗi diễn đạt . Chùm Thơ Hay Của Trần Đăng Khoa Dưới đây là những bài thơ của Trần Đăng Khoa được đánh giá là hay nhất ☛ Mưa Sắp mưaSắp mưaNhững con mốiBay raMối trẻBay caoMối giàBay thấpGà conRối rít tìm nơiẨn nấpÔng trờiMặc áo giáp đenRa trậnMuôn nghìn cây míaMúa gươmKiếnHành quânĐầy đườngLá khôGió cuốnBụi bayCuồn cuộnCỏ gà rung taiNgheBụi treTần ngầnGỡ tócHàng bưởiĐu đưaBế lũ conĐầu trònTrọc lốcChớpRạch ngang trờiKhô khốcSấmGhé xuống sânKhanh kháchCườiCây dừaSải tayBơiNgọn mùng tơiNhảy múaMưaMưaÙ ù như xay lúaLộp bộpLộp bộp…RơiRơi…Đất trờiMù trắng nướcMưa chéo mặt sânSủi bọtCóc nhảy chồm chồmChó sủaCây lá hả hêBố em đi cày vềĐội sấmĐội chớpĐội cả trời mưa… ☛ Buổi Sáng Nhà Em Ông trời nổi lửa đằng đôngBà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thayBố em xách điếu đi càyMẹ em tát nước, nắng đầy trong khauCậu mèo đã dậy từ lâuCái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêngMụ gà cục tác như điênLàm thằng gà trống huyên thuyên một hồiCái na đã tỉnh giấc rồiĐàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao!Chị tre chải tóc bên aoNàng mây áo trắng ghé vào soi gươngBác nồi đồng hát bùng boongBà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà ☛ Hạt Gạo Làng Ta Hạt gạo làng taCó vị phù saCủa sông Kinh ThầyCó hương sen thơmTrong hồ nước đầyCó lời mẹ hátNgọt bùi đắng cay… Hạt gạo làng taCó bão tháng bảyCó mưa tháng baGiọt mồ hôi saNhững trưa tháng sáuNước như ai nấuChết cả cá cờCua ngoi lên bờMẹ em xuống cấy… Hạt gạo làng taNhững năm bom MỹTrút trên mái nhàNhững năm cây súngTheo người đi xaNhững năm băng đạnVàng như lúa đồngBát cơm mùa gặtThơm hào giao thông… Hạt gạo làng taCó công các bạnSớm nào chống hạnVục mẻ miệng gàuTrưa nào bắt sâuLúa cao rát mặtChiều nào gánh phânQuang trành quết đất Hạt gạo làng taGửi ra tiền tuyếnGửi về phương xaEm vui em hátHạt vàng làng ta… ☛ Cây Dừa Cây dừa xanh toả nhiều tàuDang tay đón gió, gật đầu gọi trăngThân dừa bạc phếch tháng nămQuả dừa – đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè hoa nở cùng saoTàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanhAi mang nước ngọt, nước lànhAi đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa Tiếng dừa làm dịu nắng trưaGọi đàn gió đến cùng dừa múa reoTrời trong đầy tiếng rì ràoĐàn cò đánh nhịp bay vào bay ra… Đứng canh trời đất bao laMà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi. ☛ Em Vào Đại Học Thế là em đã vào đại họcAnh được tin khi nghỉ trên đỉnh dốcTừ đây đến quê nhà mờ mịt những rừng câyAnh mừng cho em, em có hay? Anh nhớ ngày nào em còn thơ ngâyMẹ ra đồng cày. Bố vào lò gạchChị trực chiến xa. Cả nhà vắng hếtEm thơ thẩn một mình, đánh tam cúc với mèo khoang Anh nhớ những hôm giặc Mỹ bắn vào làngTrường anh ven đồng, bom cũng xô tốc ngóiAnh ngồi giữa bạn bè, nhưng làm sao học nổiEm với mèo có kịp tới hầm không? Anh buồn cười nhớ những buổi chiều râmTrên góc sân nhà, anh bày cho em họcChữ dài quá, em đánh vần không đượcThế là lại khóc nhè Mười mấy năm thoáng chốc qua điEm đã thành cô sinh viên rồi đấyCùng với em, một lớp người lớn dậyAnh làm sao có thể hình dung Lại thương em, buổi chiều anh lên đườngCả nhà tiễn anh đi mà em thì vắng mặtEm gánh phân. Mưa trắng đồng hợp tácAnh đi rồi. Bố mẹ biết nhờ ai? Anh đã vượt qua những dốc bom dàiNhững vùng đất thương đau, những khoảng trời sốt rétEm lớn bổng lúc nào anh chẳng biếtCứ ngỡ rằng em vẫn bé không Hôm nay em đến giảng đườngAnh hằng khao khátThế hệ anh, mấy lớp người đi cứu nướcCó bao anh chưa tới được lớp mười Có bao anh nằm lại dọc đường rồiNhững con suối không tên, những ngọn đồi không tuổi Có thể sau này em dẫn học trò tớiChỉ thấy im lìm rừng xanh với núi xanh Mong sao ngày đất nước yên lànhAnh lại về cùng em vui chơi như thuở nhỏTrên góc sân nhà, em là cô giáo nhéAnh làm chú học trò. Và bài học đầu tiên… ☛ Gửi Theo Các Chú Bộ Đội Cháu nghe chú đánh những đâuNhững tàu chiến cháy, những tàu bay rơiĐến đây chỉ thấy chú cườiChú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi Rồi từ nhà cháu chú điLúa chiêm vào mẩy, chim ri bay vềNghiêng nghiêng buồng chuối bên hèRặng tre, bãi mía bốn bề vẫy theo… Chú qua bao suối bao đèoĐến nay chắc đã thêm nhiều chiến côngNgoài này cháu đứng cháu trôngNhững đêm súng nổ, lửa hồng chân mây Cháu về lớp cũ tường xâyThông hào luồn dưới bóng cây xanh rờnChú đi phá nốt bốt đồnCuối trời còn giặc, chú còn ra đi Vẫn mong ngày chú trở vềLại ngồi với cháu bên hè đánh bi… Chia Sẽ ❤️️Bài Thơ Mẹ Ốm❤️️Soạn Bài + Giáo Án Nhà Đẹp NB – Từ biết bao thế hệ người con Việt Nam. Hình ảnh ” Quê Hương ” luôn gắn liền với tiềm thức của mỗi con người Việt. Chất chứa trong đó là những hoài niệm, hình ảnh thân thuộc trong mỗi người. Nhà Đẹp NB xin trích dẫn một đoạn trong một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Đỗ Trung Quân. Và sau đó được nhạc sĩ được Giáp Văn Thạch phổ nhạc. ” Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngàyQuê hương là đường đi họcCon về rợp bướm vàng bayQuê hương là con diều biếcTuổi thơ con thả trên đồngQuê hương là con đò nhỏÊm đềm khua nước ven sông “ ” Quê hương ” gắn liền với nhiều hình ảnh thân thuộc như ” những cánh đồng đồng quê, cổng làng, sân đình, cây đa giếng nước “. Là nơi nuôi lớn biết bao thế hệ người dân Việt Nam. Những giá trị sâu sắc về nét đẹp trong truyền thống văn hóa vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Tranh đồng quê có những hình ảnh chi tiết nào ? Hình ảnh phong cảnh đồng quê miêu tả lại chân thực cuộc sống, sinh hoạt nơi làng quê. Với những hình ảnh lao động thiêng liêng, gần gũi. Hình ảnh cậu bé chăn trâu, thổi sáo gợi cho mỗi chúng ta nhớ lại những hình ảnh đẹp về tuổi thơ đã qua. Hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình, cổng làng đây có lẽ là hình ảnh mang tính biểu tượng lớn nhất cho những ngôi làng truyền thống tại Việt Nam. Tại sao nhiều người lựa chọn tranh đồng quê để treo trong nhà ? Tranh phong cảnh quê hương vừa có tính giá trị trang trí, nghệ thuật, vừa mang lại những ý nghĩa riêng trong mỗi con người. Mang lại sự may mắn cho gia phong cảnh đồng quê mang lại một miền kí ức, mang hương vị quê hương vào hiện mong muốn tìm kiếm sự bình yên nơi tâm hồn sau những ngày làm việc vất lại hình ảnh làng quê, nơi mà mỗi người đã sinh ra và lớn giá trị trong việc trang trí cho không gian sống trở nên nhiều màu sắc hơn. Ngoài những giá trị trên, thì tranh đồng quê còn là sự lựa chọn hoàn hảo, là món quà dành tặng cho bạn bè, đồng nghiệp, đối tác, những mối quan hệ tình cảm . Món quá chất chứa những giá trị tình cảm trân thành nhất. Tranh đồng quê được làm từ những loại vật liệu nào ? Tranh có thể được làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau như Tranh đồng quê được làm bằng gỗTranh đồng quê được chế tác từ kim loại đồng , nhôm…Tranh được làm từ các vật liệu từ vải, giấy… Những bức tranh phong cảnh đồng quê được chế tác từ gỗ thường được lựa chọn sử dụng hơn cả giá thành phù hợp với nhiều đối tượng, có giá trị …. Treo tranh đồng quê như thế nào cho đúng. Dựa theo kinh nghiệm tích lũy được trong thời gian dài .Nhà Đẹp NB xin chia sẻ đến quý độc giả cách treo những mâu tranh phong cảnh quê hương đúng, hợp phong thủy. Theo quan niệm trong phong thủy. Tranh đồng quê, hay bất kể một loại tranh nào khác đều mang đến những giá trị khác nhau. Hướng treo khác nhau cũng ảnh hưởng đến một cung, mệnh khác nhau trong đời sống của mỗi gia chủ. Hướng treo phổ biến, phù hợp với đại đa số các cung, mệnh hiện nay được các chuyên gia phong thủy khuyến nghị là hướng Đông Nam. Tùy thuộc vào hướng nhà, không gian trưng bày, mỗi gia chủ sẽ lựa chọn cho mình những vị trí treo sao cho phù hợp. Tranh nên được treo ở những nơi dễ nhìn, tránh các vị trí có thể làm loãng hình ảnh của tranh. Xem thêm Các vật liệu phổ biến SX đồ nội thất phong cách hiện đại 3 Tích truyện và ý nghĩa của tranh ngựa mã đáo thành công HD sử dụng và bảo quản đồ nội thất gỗ CN luôn bền đẹp. Hệ thống điều khiển các thiết bị điện trong hệ thống điện nhà thông minh. Tổng hợp các mẫu lục bình đẹp, lục bình trang trí phòng khách đẹp. Hướng dẫn cách sắp xếp thứ tự các khu vực của tủ bếp đúng phong thủy Lục Bình gỗ phú quý, Combo bình gỗ Phú Quý – Đá Phú Quý đẹp. Mẫu thiết kế tủ quần áo âm tường hiện đại. Kích thước tủ tiêu chuẩn. Tranh minh họa Ông bà cha mẹ tôi nông dân. Tôi sinh ra và lớn lên ở làng. Tôi từ làng ra đi. Ba năm quân ngũ tôi đóng quân ở thành phố. Ở cái nơi mà ánh sáng ban ngày, ánh điện ban đêm đều giống như nhau. Tôi không hòa nhập được với cuộc sống thị thành. Muốn học theo một cái gì đó lại thấy mình như thằng bé hớn hở đuổi theo bao điều phù du không có thật. Chỉ một vầng trăng mười bốn cũng làm tôi thèm đến quay quắt cả người. Một đêm đứng gác cổng doanh trại tôi hỏi thằng bạn. “Mày biết bây giờ tao thích cái gì nhất?”. “Một con gà quay và mấy cốc Tiger”. “Sai bét. Được chạy dưới trăng, ngửa mặt nhìn trời, hít căng lồng ngực”. Nó cười và cho tôi là “vẽ chuyện”. Bây giờ thì tôi đã về với làng. Làng tôi như nửa vành trăng nằm trong khúc vòng cung của con đê ngăn nước lũ. Ngước mặt lên là nhìn thấy núi. Núi cao vời vợi. Cúi xuống thấp hơn là gặp được sông. Sông trôi lờ lững. Quay phải, quay trái là đồng ruộng trải dài. Mưa. Mưa vũ vã. Mưa trắng trời. Làng ngập nước trong ánh chớp lòa và tiếng sấm sét rền vang. Đồng nước trắng mênh mông. Tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu ộp oạp. Và côn trùng eo ỉ. Đồng quê đang tấu lên bản nhạc buồn buồn. Ngày đầu tiên tôi trở về làng là như vậy. Bà nội cứ thở ngắn thở dài, cẩm rẩm. Bà nói với mọi người mà như nói một mình. “Giời với chả đất. Lúa má ngập sạch mất. Của ăn đến miệng rồi ông giời cũng không tha”. Rồi bà lọ mọ ngồi giã trầu bằng chiếc cối đồng bé tý. Mùi trầu cay cay quyện vôi thấy nồng nồng ấm sực cả gian nhà. Bỏ miếng trầu giã nát tươm vào mồm bà lại bảo “Ngày xưa thế này cầm chắc mất mùa”. Mẹ tôi cười giả lả “Bà lại ngày xưa rồi. Con cháu nghe mãi”. Bà kể lể thôi là kể lể. Đời bà cực lắm. Đi làm dâu từ năm mười ba tuổi. Lỡ đánh cái rắm mà xấu hổ bỏ về nhà mấy năm giời. Ai xuống gọi cũng trốn biệt. Đến khi mẹ chồng xuống nịnh nọt mãi mới chịu về nhà chồng. Lúc đầu vợ chồng mấy tháng không dám nhìn mặt nhau. Đến đận ông đi bộ đội mới dám gần gũi, rồi ông lại đi biền biệt suốt. Bà đẻ bố tôi mấy tháng, ông mới được về. Ở nhà chơi với con vài ngày ông lại phải đi, nghe đâu lần này ông theo đơn vị đi xa lắm. Bà tôi kể lại rằng, lúc ấy mới khoảng canh ba ông bấm vào tay bà rồi hai người trở dậy. Bà khẽ đặt thằng bé là bố tôi xuống ổ rơm cho mẹ chồng rồi khoác tay nải lách cửa đi theo ông ra tận đường lớn. Lúc xuống đò ông ngoái lại dặn “Nhà ở lại trông nom mẹ già và con nhỏ, tôi đi đợt này có dễ...”. Rồi bà có mang cô Tâm ba tháng thì được tin ông hy sinh. Bà phiền muộn nên cô Tâm đẻ ra ốm đau, sài đẹn mãi. Bà khổ quá. Lấy chồng chưa biết nhớ, biết thương thì đã thành góa bụa. Bố mẹ tôi thương bà lắm. Tôi lớn lên đã quen nếp nghĩ bà nội tôi hiền từ nhân hậu nhất làng. Tôi khôn dần bằng lời ru bà cất lên với điệu ngân ai muôn thuở. Mưa ngớt dần rồi tạnh hẳn. Ngoài hiên nhà những giọt nước nhỏ tý tách xuống máng tôn đều đều như gõ nhịp. Tôi không biết mình đã thiếp đi từ lúc nào. Gần sáng tỉnh dậy trăng hạ tuần xuyên qua cửa sổ chiếu vào giường lành lạnh. Bố đã dậy từ lúc nào. Bố vừa hút xong điếu thuốc lào đang ngồi nhả khói. “Sao bố dậy sớm thế”. “Mày ngủ nữa đi. Con nước to lắm. Tao phải ra đê xem thế nào”. “Bố cho con đi với”. Tôi vùng dậy với bộ quân phục mặc vào người rồi bước theo bố. Ba năm trước lúc chưa đi bộ đội tôi cũng đã có những buổi đi canh đê chống lụt như thế này. Đêm nghe nước thon thót trở mình. Thấy mênh mang, mênh mang một nỗi buồn lo về vụ tới. Rồi những người đàn bà khi xúc gạo nấu cơm, họ không quên bốc lại một nắm. Người nông dân lúc nào cũng lo mùa màng thất bát. Điếm canh đê hôm ấy bọn con gái mang theo cả khoai lang luộc và ngô rang. Con trai chúng tôi chúi đầu vào đám tú lơ khơ đánh tiến lên. Ăn uống chán, chúng tôi lôi tiếu lâm ra kể cho nhau nghe. Hôm ấy tôi đã kể rằng “Có một đôi nam nữ yêu nhau, họ đưa nhau ra đồng lúa ngồi hóng mát. Ngồi mãi mà chẳng ai nói được câu nào. Anh con trai bảo Lúa năm nay tốt nhỉ? Người con gái Phân mà lị. Người con trai Trăng hôm nay sáng nhỉ. Người con gái Rằm mà lị. Rồi cuối cùng người con trai bảo Hôm nay em xinh thế! Người con gái trả lời Yêu mà lị. Cả lũ cười ngiêng ngả. Anh Luyện xã đội trưởng quát “Chúng mày đi gác đê hay ra đây cười”. Rồi chính anh cũng lăn ra cười và bảo tôi “Thằng này khá”. Những đứa con gái ngày ấy bây giờ đã lấy chồng. Mấy chục năm qua rồi, quê tôi hầu như không có gì thay đổi. Cuộc sống có thể khác đi, giàu có hơn; nhưng ao bèo, hồ sen, ruộng lúa thì vẫn vậy. Bố con tôi ra đến đầu đê đã nghe tiếng máy bơm chạy xình xịch. Ngoài sông con nước xuống dần. Trong điếm canh đê mọi người đã về ngủ hết. Khu trạm bơm mười hai vòi nước phun trắng xóa. Bố tôi nói oang oang với mấy anh trạm bơm “Ấy chà! Định nghiêng đồng đổ nước ra sông hả?”. Chợt giọng ai đó với ra “Chào chủ nhiệm! Nước xuống nhanh lắm chỉ chiều mai cây lúa lại bình yên!”. Bố vừa đi vừa lẩm nhẩm “Nước rút cũng mau, năm nay mưa không kéo dài nên cũng đỡ”. Mờ sáng bố con tôi mới về đến rìa làng. Làng quê vẫn còn yên tĩnh. Quang cảnh như vừa hiện ra trong trẻo và mát mẻ. Phía chân trời hừng đông đã ưng ửng. Trăng lặn từ lúc nào. Trên trời một vì sao mai nhấp nháy. Đầu kia tốp người ra trông nước đang nói cười hể hả. Qua xóm Trại. Dưới nếp nhà thấp sau lùm tre, có bóng người trong ngõ đi ra. Bố tôi lên tiếng - Cô Hà đấy à? Đi đâu mà gồng gánh sớm thế? - Bố con bác đi ngó nước về à? Em đi bán mấy con lợn giống. Đói kém đến nơi rồi! - Thôi mang về đi. Mai sang tôi, lấy mấy thúng thóc cho các cháu ăn tạm. Lúa đã chắc đòng rồi. Cô ngập ngừng rồi quay lại. Dáng tảo tần khuất dần sau lùm tre. Con lũ sớm qua nhanh, dòng sông quê tôi lại hiền hòa êm ả. Trời thu cao lồng lộng heo may về sớm. Mấy con đò sang sông sớm chiều tấp nập. Làng tôi rổn rang bước vào mùa cưới. Hôm nay đám cưới chị Hòa. Bố tôi sang làm thịt lợn từ sáng sớm. Tôi sang đến nơi thấy các bà, các cô đang lau bát đĩa. Ngoài sân mấy người gọt bí, thái măng tấp nập. Trong nhà, chị Hòa đang gấp áo gối cưới sai người mang đến nhà trai. Quê tôi con gái lấy chồng có viên mãn hay không cứ nhìn vào gối cưới thì thấy. Họ tự tay mua vải rồi nhờ vẽ, tự thêu, tự móc và cặm cụi nắn nót như gửi gắm cả đời con gái vào đường kim mũi chỉ. Chị Hòa hỏi tôi, đầu vẫn cắm xuống cái áo gối - Mày ra quân rồi à? Có định đi đâu không hay ở lại quê? - Thì em đang đứng trước mặt chị đây. - Tao hỏi sau này cơ. - Em ăn mòn bát đĩa thiên hạ rồi không ở đâu bằng quê mình. - Tao biết vậy mà. - Thế chị đã lát gạch đường làng chưa? Không trả lời tôi, chị Hòa cười tủm tỉm. Con gái quê tôi dù lấy chồng ở làng hay lấy chồng thiên hạ, mỗi người đều lát một trăm viên gạch xuống đường để đánh dấu ngày chấm dứt thời con gái. Tục lệ ấy có từ lâu lắm rồi. Bà tôi ngày xưa cũng thế, đến lúc các chị gái tôi cũng vậy. Chẳng hiểu con đường ấy được bắt đầu từ đâu và tục lệ ấy đã bắt đầu từ bao giờ, chỉ biết rằng đường đi khắp ngõ xóm vươn dài ra mãi một màu gạch đỏ nâu bóng. Quê tôi trai gái ít bỏ làng ra đi. Ngoài việc đồng áng, con gái quanh năm cắm cúi làm hàng thêu xuất khẩu nên bàn tay ai cũng nuột nà nhưng dáng ngồi thì gù hẳn xuống. Đàn ông có nghề đóng gạch xây nhà và bán gạch cho thiên hạ. Làng tôi bao đời sinh ra những cô thôn nữ đẹp dịu dàng như dải lụa. Các cụ bảo ngày xưa mỗi năm khi còn là Tổng cũ làng đều có con gái đẹp để tiến vào cung Vua. Rồi các cụ lại bảo ngày xưa khúc sông Hoàng Long uốn quanh làng chỗ bãi cát bây giờ, những hôm trở trời thường thấy cả bầy tiên nữ bay xuống tắm. Bọn trẻ chúng tôi dù biết là huyền thoại mà vẫn mong có hôm trở trời thật để được nhìn tận mắt bầy tiên tắm nhưng chả thấy bao giờ. Chuyện tiên tắm thì không biết có hay không, nhưng dòng sông quê tôi thì lạ thật. Lúc sáng sớm mặt nước loang loáng khói bốc mù mịt. Buổi trưa khi có ánh nắng chiếu xuống, mặt nước tím sẫm lại. Rồi chiều về dòng nước lại trong veo mềm như dải lụa xanh. Nắng hanh vàng, gió hây hẩy. Heo may về hơi lạnh đã thấy săn da. Vắt qua cánh đồng xa tít tắp trước làng là con đường lớn. Hai bên đường các trai làng trồng cây lưu niệm trước lúc lên đường dù là đi học hay đi bộ đội. Cây xà cừ tôi trồng cách đây ba năm về trước, bây giờ đã vươn cao, cành lá um tùm, mướt mát xanh, tươi tốt. Dưới vệ đường mọc đầy cỏ may. Cỏ may trên bờ thường mọc cùng thời với lúa. Khi đồng lúa chắc đòng thì cỏ may xanh mướt. Tôi thường hay lang thang trên cánh đồng. Sương thu lãng đãng trôi qua như khoác lên mình nó một tấm áo bàng bạc mờ mờ, ảo ảo. Những khi sương mù lãng đãng trôi trên đường. Bước chân bỗng nhẹ tênh như đưa tôi đến một miền mơ ước mới. Rồi nắng thu trải dài trên cánh đồng, rắc lên hoa cỏ may như những giọt sương lấp lánh. Phía cuối kia nắng vàng yếu dần. Hoàng hôn thu hình như buông chậm. Tiếng chuông chùa bên xóm đạo thánh thót ngân nga. Tôi đang đến với Mỵ. Con đường này Mỵ đã kể cho tôi nghe câu chuyện đàn ông, đàn bà trên trái đất. Dù đã biết từ lâu rồi nhưng câu chuyện em kể tôi nghe như mới lạ, ngày xưa thánh ALa chỉ sinh ra trên trái đất một người đàn ông. Ba mươi vạn năm sau người đàn ông đã tìm gặp thánh ALa tâu rằng “Tâu đức thánh tối cao. Con cô đơn quá không sao sống được”. Người cứ về đi và sẽ không còn cô đơn nữa”. Và trái đất có thêm một người đàn bà. Ba mươi vạn năm nữa người đàn ông lại tìm gặp thánh ALa “Lạy đức thánh cao cả. Nó lắm mồm quá con không thể sống nổi”. “Người cứ về đi sẽ không còn ai lắm mồm nữa đâu”. Người đàn ông trở về trái đất thấy người đàn bà đã biến mất và ông ta cho đó là điều thật may mắn. Nhưng một lần nữa sau ba mươi vạn năm, người đàn ông lại tìm gặp thánh ALa “Thôi lắm mồm cũng được. Xin đức thánh ALa cao cả. Hãy cho người ấy về với con”. Rồi phải mất hàng triệu năm sau nữa và thêm rất nhiều lần trả giá người đàn ông và người đàn bà mới tìm được tiếng nói chung… Có lúc tôi muốn nghĩ người đàn bà đó là Mỵ, có lúc lại không. Tôi yêu em nhưng gia đình tôi băn khoăn vì em là con gái theo đạo, em là con của Chúa. Cả cánh đồng dưới chân tôi mênh mang ngân lên một khúc hát. Bộ hồ sơ xin việc của tôi nó đang nằm ở đâu? Tôi đã quên tự lúc nào. Làn gió heo may se se dạo qua cánh đồng bát ngát. Ánh trăng lên cao buồn cô liêu nửa dỗi hờn, nửa như chờ đợi. Sắp đến giữa thu rồi. Ánh trăng vằng vặc rạng rỡ tỏa khắp cánh đồng, tôi lâng lâng lăn người ra cỏ. Tôi dang tay ra ôm cả bầu trời. Cỏ dưới người tôi ấm mềm như nhung. Đồng lúa rầm rì nghe như tiếng hát xa xôi. Tiếng hát hiến dâng cho con người những phút giây vui vẻ nhất. Xung quanh tôi nồng nàn mùi đất ẩm. Đất sinh ra con người, con người nặng lòng với đất. Mỵ ngớ ngẩn hỏi tôi rằng “Mai sau đất khô cằn hết chất, con người sẽ sống bằng gì?”. - “Lòng đất sẽ mở ra đến vô tận và vô cùng Mỵ ạ”. Ngoài sân đình rộn rã tiếng cười. Tiếng trống ếch thì thùng mời gọi. Vầng trăng như tròn hơn, sáng hơn. Mỵ nắm chặt tay tôi chạy ra phía ấy. Điệu múa sạp gọi tuổi thơ của chúng tôi về thổn thức. Tôi bảo - Mỵ còn nhớ ngày xưa lúc nhảy sạp, Huy hay hát xuyên tạc rồi bị mắng không? - Bây giờ Huy hát lại đi. Mỵ cười rồi bắt tôi hát lại “Bà già bà chê tôi già. Bà già bà chê tôi đen. Tôi đen tôi lấy người đen. Tôi đen lấy chi con bà...”. Ngày ấy lũ trẻ chúng tôi đã chơi đùa thâu đêm cùng gió, cùng mây, cùng trăng… Còn bây giờ tôi đang đứng đây. Tôi và em giữa mênh mông trăng tỏa. Trăng rực rỡ, gió mát rượi cất tiếng gọi thu nghe dịu dàng như lời con gái. Từng đôi nam nữ đan tay vào nhau bước rộn ràng theo nhịp gõ “Xòn xòn xòn đô xòn. Xòn xòn xòn đô rê. Rê rê rê mí xì rê. Rê rê mí rê đô là”. Những bước chân gái trai uyển chuyển. Tôi nắm chặt tay em, bàn tay mền mại của em trong tay tôi có chút dịu dàng của mùa thu, rợp mát của mùa hè và nồng nàn của mùa xuân. Trăng khuya treo tít trên trời tôi muốn đêm thu dài ra mãi. Trời đừng sáng trăng cứ thế này lung linh và huyền ảo. Mỵ lại hỏi tôi câu hỏi ngày xưa em chưa biết. Chân trời bắt đầu từ chỗ nào? Chân trời bắt đầu từ nơi con người sinh ra. Một buổi chiều cuối thu. Bố tôi đi thăm đồng. Cả cánh đồng phủ sương bàng bạc. Phía xa kia là chân trời rực hồng ráng đỏ. Bóng bố tôi ẩn hiện dưới hàng cây, bố cầm trên tay nắm lúa vàng hây hẩy. Nét lo toan thường ngày trên mặt bố giãn ra. Đâu đó tiếng gọi í ới lao xao trong ngõ xóm. Lòng thấy vui vui như một điều gì quan trọng lắm vừa mới định hình. À thì ra là hương lúa. Cái mùi ngai ngái, ngòn ngọt quấn quýt bước chân người về. Chiều thu suộm lại như một dải vàng óng ánh trên cánh đồng. Trong hoàng hôn cỏ may hai bên đường hung hung thẫm lại. Giọt nắng cuối ngày lẫn vào mắt lúa. Cả cánh đồng rì rào đuổi nhau theo gió xô bờ như những lớp sóng vàng xô vào bờ. Tôi bước đi mê man giữa những lớp lúa hai sương một nắng của mẹ. Bắt chước bà nội tôi rứt một cọng rơm vàng đưa lên môi nhấm nháp thấy vị ngọt tê tê đầu lưỡi hương thơm ngan ngát dâng lên nghe hồn mình lắng đọng. Buổi chiều bà nội giục mẹ mang liềm, hái ra lau lại. Rồi bà ngồi nhai trầu, nhìn ánh mắt hấp háy của người già tôi biết bà đang vui chờ vụ lúa mới, mặc dù lúa cũ còn đầy cả cót trong nhà. Bà nhắc mẹ hái cho bà một nắm lá thơm đủ loại Mần chầu, ngải cứu, lá tre, lá sả… Mẹ thả tất cả lá thơm vào nồi to đun nước để bà tắm gội. Bà lên giường nằm và bà ngủ mãi. Bà nội tôi ra đi như vậy. Thanh thản nhẹ nhàng như đi vào cõi Phật. Đám tang bà, bố tôi mặc áo xô, đầu đội nùn rơm, thắt dây chuối ngang thắt lưng, chống gậy đi giật lùi sau linh cữu. Mẹ tôi, cô Tâm khóc vật vã. Các chị gái tôi khóc ròng ròng. Lúc đưa bà ra đồng mặt trời đã lên cao, nắng chan hòa tỏa khắp thôn xóm, cánh đồng. Sau quan tài có mặt trận tổ quốc xã, ban quản trị HTX. Rất đông các cụ ông, cụ bà và xóm làng đưa tiễn. Các cụ già bảo “Cụ ăn ở phúc đức lắm nên lúc theo tổ tiên mới nhẹ nhàng như vậy”. Tôi không tin hẳn bà nội tôi đã mất vĩnh viễn. Đứng bên linh cữu bà tôi lại như thấy mình bay lên. Tôi bay vào một miền cổ tích, ở đấy bà tôi đang kể chuyện “Giếng mắt rồng”, truyện “Mẹ lúa”... Tôi không khóc mà nước mắt cứ trào ra thành một dòng lăn dài xuống cổ áo bộ đội bạc... Người ta đặt bà trong nghĩa địa của làng. Mọi người chen nhau vào ném xuống huyệt những hòn đất ướt. Ai đó ấn vào tay cô Tâm một nắm đất, cô thả nhẹ xuống rồi lại dụi dặm khóc “Mẹ ơi từ giờ con biết tìm mẹ ở đâu...” Trên mộ bà có mấy vòng hoa, một bát cơm thật đầy cắm đôi đũa và quả trứng gà luộc. Sáng hôm sau mọi người làm cơm cúng ba ngày cho bà. Nhìn mọi người vào ra tấp nập tôi cứ tưởng tượng thấy dáng bà lom khom lọ mọ ở góc nào đó. Tối ấy, mọi người về hết mẹ tôi bảo bây giờ chắc bà gặp được ông rồi. Bố vẫn gục đầu xuống hai gối giọng thì thào nghe thật xa xôi “Thương bà quá, cả một đời lo cho con cháu”. Ở nhà vài ngày cô Tâm tôi lại về Hà Nội, trước khi đi cô thắp hương rồi gục xuống ban thờ bà nức nở “Hi...Hi... mẹ ơi nếu như mọi ngày mà con chuẩn bị đi thế này là mẹ săm sắm lo cho con rồi đây mẹ ơi... Ư..ư”. Bố tôi dắt chiếc xe cup 81 ra sân rồi dặn - Mày đèo cô ra bến đi đứng cho cẩn thận. Quay sang cô bố tôi nhẹ giọng - Thôi em ạ đằng nào thì mẹ cũng đi rồi. Anh em đùm bọc nhau. Mẹ tôi quay vào lau nước mắt. Cảnh nhà trống vắng quá. Tất cả lại cuốn đi. Công việc nhà quê đang mùa gặt hái. Bố lại vắng nhà luôn lúc ở ngoài đồng, khi lên ủy ban, hôm lại xuống huyện họp. Mẹ con tôi tất bật mùa màng. Trời xầm xì nặng trịch cũng là lúc những gánh lúa cuối cùng mang về nhà gọn ghẽ. Tôi bước trên đồng. Phía xa kia là chân trời nhuốm một màu vàng xuộm. Trên cao hơn nữa mây cuồn cuộn như một núi bông xốp xộp. Chân trời phía ấy sương xuống lạnh hơn. Một nỗi buồn da diết choán ngập lòng tôi. Cả cánh đồng đã gặt hết còn trơ gốc rạ. Mùi nồng nàn đằm thắm thiết tha. Đấy là mùi hương quyến rũ nhất của đồng quê ban tặng con người. Cơn gió chiều cuối thu xào xạc. Mấy chiếc lá vàng bay bập bênh như nỗi chia xa của mùa thu khẽ chao nghiêng rồi rơi luôn về cội. Trên ngọn tre mấy cánh cò chấp chới, dập dờn, dập dờn trốn vào thinh không cao ngút ngát. Xa xa tiếng sáo ngập trời huyền hoặc. Không gian chứa chan thứ tình cảm dịu dàng bí ẩn. Diều nhà ai ở tít trên cao chui vào giữa những đám mây bồng bềnh, chỉ còn tiếng sáo vẫn ngân nga, da diết. Đó là những khúc hát của đồng quê thả lên nền trời. Trang chủ Tiểu thuyết Đồng Quê » Mua Sách Tại Những Trang Thương Mại Điện Tử Uy Tín Mô tả Giới thiệu bạn đọc cuốn ebook "Đồng Quê" Đề tài nông thôn trong sáng tác của các nhà văn không phải là điều gì mới lạ. Tuy nhiên, để khắc họa được một bức tranh quê với đủ các diện mạo, màu sắc của nó không phải là điều dễ dàng. Có thể nói, phần lớn chủ đề tác phẩm của các nhà văn miền Nam *** Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành-văn cũng như nội-dung đều có tính-cách “nhật-trình”. Lối văn gần như cẩu-thả. Câu-chuyện có vẻ nhất-thời. Nhưng tôi cứ để nguyên cho nhà xuất-bản. Nghĩ rằng hồi ấy tôi đã để ngòi bút chạy theo dòng ý-tưởng, dầu khéo dầu vụng, cách thuật chuyện cũng được cái đặc-điểm là ghi tâm-trạng tôi lúc viết. Hình-ảnh những nhân-vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung - ngày nay đã mờ trong ký-ức. Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn Vẽ một bức tranh phong-tục và tập-quán. Thật là quá cao-vọng. Tự thấy còn thấp-kém, nhưng tôi vẫn cố-gắng. Đây là những bài đầu, tôi ước-mong sẽ có thể viết thêm. Nếu chưa hiến được độc-giả những bài đúng theo nguyên-tắc tôi đã tự vạch, thì xin hẹn lại ở những bài sau. PHI-VÂN *** Phi Vân 1917-1977 là một nhà báo, nhà văn chuyên viết thể loại truyện vừa và tiểu thuyết mang sâu đậm dấu ấn Nam bộ trước 1954. Phi Vân tên thật là Lâm Thế Nhơn, sinh năm 1917 trong một gia đình trung lưu ở thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Ông chuyên viết phóng sự, truyện ngắn cho những tờ báo, tạp chí ở miền Nam trước đây như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng và làm chủ bút tờ Thủ Đô thời báo. Ông có lối viết linh hoạt, gọn gàng, pha chút hóm hỉnh, làm cho cho độc giả khóc, cười theo từng cảnh đời, từng nhân vật. Bối cảnh trong các tác phẩm của ông là làng quê Nam bộ xa xôi hẻo lánh với những người nông dân chất phác, cục mịch sống với tập tục cổ hủ, lạc hậu và cuộc sống cực nhọc tối tăm. *** Chỗ hứng-thú của quyển phỏng-sự ấy là nó cho ta thấy những phong-tục cũ-kỹ ở thôn-quê, những tin-tưởng dị-đoan của hạng bình dân lao-động. Nó cho ta thấy những cuộc giao-tiếp, xung-đột giữa bọn điền-chủ và tá-điền, những tâm-hồn mộc-mạc trong bọn nầy và những oai-quyền thế-lực của bọn kia. Đọc qua, chúng ta thấy mình len-lỏi chốn đồng quê, đang mục-kích những cuộc tụ-họp chơi-bời, những cảnh cần-lao rộn-rịp. Thỉnh-thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám gặt, như phất lại mùi thơm thanh-đạm của lúa vàng. Tác-giả lại còn dắt ta đi quanh co trong những sông rạch ở vùng Bạc-liêu, Cà-mau và sau mấy ngày dạo chơi mệt-mỏi, tác-giả dừng lại cho ta thấy một cảnh-sắc êm-đềm trên bờ sông Trẹm, lững-lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa xanh tươi, một thiếu-phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu-lâu đuổi bầy gà đang bới trên giồng rau cải. Hoặc giữa đêm trường vắng-vẻ, chiếc thuyền xuôi mái theo Rạch Bần, tác-giả mời ta trông lên bờ sau hàng dừa nước âm-u, một vài ánh đèn le-lói; nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm… Cho được kể lại rất tài tình những điều quan-sát rất kỹ-càng, làm cho ta như nghe, như thấy, lúc cảm, lúc vui, tất phải nhờ một ngọn bút tỉ-mỉ mà linh-hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu-duyên, một cách viết tự nhiên, không rườm-rà mà đầy đủ. Ông Phi-Vân đã gồm cả mấy điều kiện ấy Quyển phỏng-sự của ông như một tấn tuồng gay-cấn đặt trong cảnh trí xanh tươi; hay là - muốn nói cho rõ hơn - nó là một “nông kịch” chia ra nhiều lớp có hồi hộp, có vui cười và và sau rốt kết cuộc rất thương-tâm, khiến cho độc-giả phải ngậm-ngùi cảm động. Có lẽ đó là bài luân-lý sâu sắc mà tác-giả không muốn chỉ cho rõ-ràng, để ta tự hiểu ngầm mà thương hại cho hạng nông dân lao-lực. Họ chỉ sống một cuộc đời mộc-mạc, siêng-năng; nhưng mãn kiếp phải làm nạn nhân cho bọn giàu sang thế-lực. Mà cả thảy chúng ta, theo như tác-giả nói lại là “nạn nhân của một thời-kỳ”; cho nên đối với mọi người ta nên để lòng thương hại và thứ dung, và nên cầu nguyện cho chốn đồng quê được chút vui tươi yên ổn… Trích lục một đoạn bài diễn-văn của giáo-sư Nguyễn-văn-Kiết chủ-tịch của Hội Khuyến-học Cần-thơ đọc trong dịp lễ phát giải thưởng văn-chương Thủ-khoa Nghĩa năm 1943. Tham khảo thêm Dòng Sông Ly BiệtTham khảo thêm Đứa Con MuộnTham khảo thêm Đứa Con Người YêuTham khảo thêm Đùa Với Thần Ái TìnhTham khảo thêm Đức Thánh TrầnCLICK LINK DOWNLOAD EBOOK TẠI ĐÂY. Thẻ từ khóa Đồng Quê, Đồng Quê pdf, Đồng Quê ebook, Tải sách Đồng Quê

nội dung bài tiếng đồng quê