Cũng có những người đàn ông đi xe đạp cố đưa mắt thử nhìn vào bên trong cửa sổ lộng kính khép kín trong sương mù. Đây chẳng qua chỉ là một đêm khuya bình thường vào mùa đông. Bước vào nhà ông Phương, chúng tôi bắt gặp người phụ nữ tội nghiệp đứng dựa cửa nhìn ra - đó là bà Nguyễn Thị Lĩnh (SN 1972 - em gái ông Phương). Còn trong góc nhà tối tăm, là người đàn ông có vẻ ngoài như bộ xương khô nằm quằn quại trên giường vì căn bệnh ung thư máu hành hạ. Còn bà Lĩnh bị bệnh thiểu năng trí tuệ (Ảnh: Nguyễn Tú). Ăn cá nhả xương, ăn đường nuốt chậm 34. Ăn cây nào, rào cây nấy 35. Ăn chưa no, lo chưa tới Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi Một đàn cò trắng bay quanh Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta Tình trạng đau bụng dưới bên trái thường là do rối loạn tiêu hóa, người bệnh sẽ bị đau bụng quằn quại, bụng cứng kèm tiêu chảy. Những nguyên nhân đau bụng dưới bên trái thường gặp Theo nhiều chuyên gia về tiêu hóa, một số bệnh lý có thể gây ra đau bụng dưới bên trái đó là: 3.2/5 - (6 bình chọn) Truyện ngôn tình ngược là một trong những thể loại đặc sắc của dòng truyện ngôn tình, ngôn tình ngược lấy lòng độc giả bằng những câu chuyện cảm động, sâu sắc, cái kết bi để lại nhiều tiếc nuối, day dứt, mang đến một cái kết đầy tiếc Những dấu hiệu sớm của ung thư dạ dày là bệnh nhân khó chịu vùng bụng trên rốn, đau tức, đau nhẹ, không phải cơn đau dữ dội, quằn quại. Một số bệnh nhân thiếu máu, hoa mắt, chóng mặt đặc biệt khi thay đổi tư thế. Khi ung thư ở giai đoạn tiến triển (có di căn hoặc biến chứng), bệnh nhân bị chướng bụng, hoặc sờ thấy trên cổ nổi hạch. d8BkvZ. Tụng Kinh Vu Lan Bồn và Kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân vào ngày rằm tháng 7 tại chùa và tại nhà sẽ giúp cha mẹ 7 kiếp trước được siêu sinh tịnh độ, cha mẹ kiếp này được sức khỏe, trường thọ. Như thế là giúp trả hiếu cho cha mẹ vậy. Nếu cúng cơm chay và chuẩn bị 5 loại hoa quả thắp hương thì tốt nhất. Ta từng nghe nói lời tạc như vầy Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung. Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân. Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả, Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền, Làm con hiếu-hạnh vi tiên, Bèn dùng huệ-nhãn dưới trên kiếm tầm. Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ, Không uống ăn tiều-tụy hình-hài. Mục-liên thấy vậy bi-ai, Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm. La phẩm-vật đem dâng từ-mẫu, Đặng đỡ lòng cực-khổ bấy lâu. Thấy cơm, mẹ rất lo âu, Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn. Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt, Sợ chúng ma cướp giựt của bà. Cơm đưa chưa tới miệng đà, Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu! Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm, Mục-kiền-liên bi cảm xót thương, Mau mau về đến giảng-đường, Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải-nàn. Phật mới bảo rõ-ràng căn-cội, Rằng “Mẹ ông gốc tội rất sâu. Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu, Một mình không thể ai cầu được đâu. Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn, Tiếng vang đồn thấu đến Cửu-thiên Cùng là các bậc Thần-kỳ Tà, ma ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương Cộng ba cõi sáu phương tu-tập, Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi. Muốn cho cứu đặng mẹ người. Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng. Pháp cứu-tế ta toan giải nói, Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn!” Bèn kêu Mục-thị đến gần, Truyền cho diệu-pháp ân cần thiết thi “Rằm tháng bảy là ngày tự-tứ Mười phương tăng đều dự lễ này Phải toan sắm-sửa chớ chầy Thức ăn trăm món, trái cây năm màu Lại phải sắm giường nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu Món ăn tinh-sạch báu mầu Đựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng Chư Đại-đức mười phương thọ-thực Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên Lại thêm cha mẹ hiện-tiền Đặng nhờ phước lực tiêu-khiên ác-nàn Vì ngày ấy Thánh-tăng đầy đủ Dầu ở đâu cũng tụ hội về. Như người thiền-định sơn-khê Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả Công tu hành-nguyện thỏa vô-sanh Hoặc người thọ hạ kinh-hành Chẳng ham quyền-qúy ẩn danh lâm-tòng Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn Hoặc chư Bồ-tát mười phương Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh Đều trì giới rất thanh, rất tịnh Đạo-đức dày chánh-định chơn-tâm Tất cả các bực Thánh, Phàm Đồng lòng thọ lãnh bát-cơm lục-hòa Người nào có sắm ra vật thực Đặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời Hiện-tiền phụ mẫu của ngươi Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi Cảnh thanh nhàn hưởng-thọ tự-nhiên. Như còn cha mẹ hiện-tiền Đó nhờ cũng đặng bá niên thọ-trường Như cha mẹ bảy đời quá-vãng Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung Người thời tuấn-tú hình-dung Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân!” Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng Phải tuân theo thể-thức sau nầy “Trước khi thọ-thực đàn chay Phải cầu chú nguyện cho người tín-gia. Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ Định tâm-thần quán đủ đừng quên Cho xong ý định hành-thiền Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dưng. Khi thọ dụng, nên an vật-thực. Trước Phật đài hoặc tự tháp trung Chư tăng chú nguyện viên dung Sau rồi tự tiện thọ cùng bữa trưa”. Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt Mục-liên cùng Bồ-tát chư tăng Đồng nhau tỏ dạ vui mừng Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy Kiếp khổ về ngạ-quỉ được tan Mục-liên bạch với Phật rằng “Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra Như sau đệ-tử xuất-gia Vu-lan-Bồn pháp dùng mà độ sanh Độ cha mẹ còn đương tại thế Hoặc bảy đời có thể đặng không?” Phật rằng “Lời hỏi rất thông Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo Thiện-nam tử, tỳ-kheo nam nữ Cùng Quốc-vương, Thái-tử, Đại-thần Tam-công, tể-tướng, bá-quan Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần Như chí muốn đền ơn cha mẹ Hiện tại cùng thất-thế tình thâm Đến rằm tháng bảy mỗi năm Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về Chính ngày ấy Phật-đà hoan-hỷ Phải sắm sanh bá vị cơm canh Đựng trong bình bát tinh anh, Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường Đặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi Cùng cầu thất-thế đồng thì Lìa nơi ngạ-qủy sanh về nhơn, thiên Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp Lại xa lìa nạn khổ cực thân Môn-sanh Phật-tử ân cần Hạnh tu hiều-thuận phải cần phải chuyên Thường cầu nguyện thung-huyên an-hảo Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh Ngày rằm tháng bảy mỗi năm Vì lòng hiếu-thảo ơn-thâm phải đền Lễ cứu-tế chí thành sắp đặt Ngõ cúng-dường chư Phật chư Tăng Ấy là báo đáp, thù ân Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu Đệ-tử Phật, lo âu gìn-giữ Mới phải là Thích-tử Thiền-môn!” Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn Môn sanh tứ-chúng thảy đồng hỷ-hoan Mục-liên với bốn ban Phật-tử Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành. Nam-mô đại hiếu Mục kiền liên Bồ-tát! Kinh báo ân phụ mẫu Phật dạy con cái có hiếu với cha mẹ Tụng sau kinh Vu Lan Bồn vào ngày rằm tháng 7 Tụng Kinh Vu Lan Bồn và Kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân vào ngày rằm tháng 7 tại chùa và tại nhà sẽ giúp cha mẹ 7 kiếp trước được siêu sinh tịnh độ, cha mẹ kiếp này được sức khỏe, trường thọ. Như thế là giúp trả hiếu cho cha mẹ vậy. Nếu cúng cơm chay và chuẩn bị 5 loại hoa quả thắp hương thì tốt nhất. Kinh đại báo phụ mẫu ân Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vậy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra đến số hai muôn tám ngàn Lại cũng có các hàng Bồ Tát Hội tại đây đủ mặt thường thường Bấy giờ Phật lại lên đường Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành Đáo bán lộ đành rành mắt thấy Núi xương khô bỏ đấy lâu đời Thế Tôn bèn vội đến nơi Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng Đức A Nan trong lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương Vội vàng xin Phật dạy tường Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao thầy lại lạy xương khô Phật rằng trong các môn đồ Người là đệ tử đứng đầu dày công Bởi chưa biết đục trong chưa rõ Nên vì người ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài Chắc cũng có ông bà cha mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây Ta lễ bái những người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa Đống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi Người chịu khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam Để cho phân biệt cốt phàm Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng Đức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai Ngài bèn xin Phật tỏ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân Phật mới bảo A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng Đàn ông xương trắng nặng quằn Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn Người có biết cớ sao đen nhẹ? Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra Sanh con ba đấu huyết ra Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con Vì cớ ấy hao mòn thân thể Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai A Nan nghe vậy bi ai Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo Phương pháp nào báo hiếu song thân Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con mười tháng cưu mang Tháng đầu, thai đậu tợ sương Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường Tháng thứ nhì dường như sữa đặc Tháng thứ ba như cục huyết ngưng Bốn tháng đã tượng ra hình Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng Tháng thứ sáu lục căn đều đủ Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương Lại thêm đủ lỗ chân lông Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ Chín tháng thì đầy đủ vóc hình Mười tháng là đúng kỳ sanh Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung Làm cho cha mẹ hãi hùng Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc Cũng ví như được bạc được vàng Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay Thứ tư ăn đắng nuốt cay Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con Thứ sáu, sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng màng gớm ghê Điều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền Thứ tám chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm Điều thứ mười chẳng ham chau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn Thương con như ngọc như vàng Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn! Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người Mười phần mê muội cả mười Không tường ơn trọng đức dày song thân Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao Ấy là bất hiếu mạc dao Thì những người ấy đời nào nên thân Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết đầm đề Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan Con còn nhỏ phải năng chăm sóc Ăn đắng cay bùi ngọt phần con Phải tắm, phải giặt, rửa trôn Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì Nằm phía ướt con nằm phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình Chắc còn phải chịu trăm phần thảm thương Trọn ba năm bú nương sữa mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con Đến khi vừa được lớn khôn Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng Cho đi học mở thông trí tuệ Dựng vợ chồng có thể làm ăn Ước mong con được nên thân Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi Con ốm đau tức thì lo chạy Dầu tốn hao cách mấy cũng đành Khi con căn bệnh đặng lành Thì cha mẹ mới an tâm định thần Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang Hờn cha mẹ phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi Bà con chẳng kể ra chi Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng Trái ngang chóng báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn Lớn lên theo lối hung hăng Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ Nết tập quen làm sự trái ngang Nghe lời dụ dỗ quân hoang Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế Thân lập thân tìm kế sanh nhai Hoặc đi buôn bán kiếm lời Hoặc vào quân lính với với đời lập công Vì ràng buộc đồng công mối nợ Ngoặc trở ngăn vì vợ vì con Quên cha quên mẹ tình thâm Quên xứ quên sở lâu năm không về Ấy là nói những người có chí Chớ phần nhiều du hý mà thôi Sau khi phá hết của rồi Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài Theo trộm cướp hoặc là bài bạc Phạm tội hình, tù rạt phải vương Hoặc khi mang bệnh giữa đường Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng Hay tin dữ, bà con cô bác Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu Thương con than khóc ưu sầu Có khi mang bệnh đui mù vấn vương Hoặc bệnh nặng vì thương qúa lẽ Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn Hoặc nghe con chẳng lo lường Trà đình tửu điếm phố phường ngao du Cứ mài miệt với đồ bất chánh Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang Làm cho cha mẹ than van Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều Ốm đau đói rách kêu rêu Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương Phận con gái còn nương cha mẹ Thì có lòng hiếu để thuận hòa Cần lao phục dịch trong nhà Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi Song đến lúc tùng phu xuất giá Lo bên chồng chẳng xá bên mình Trước còn lai vãng viếng thăm Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà Quên dưỡng dục song thân ơn trọng Không nhớ công mang nặng đẻ đau Chẳng lo báo bổ cù lao Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay Nếu cha mẹ rầy la quở mắng Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng Chớ chi chồng đánh liên miên Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ Nói không cùng nghiệp dữ phải mang Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi Đập vào mình, vào mũi vào hông Làm cho các lỗ chân lông Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân Đến hôn mê tâm thần bất định Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc Ruột gan dường như nát như tan Tội tình khó nỗi than van Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu Trước Phật tiền ai cầu trần tố Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân Làm sao báo đáp thù ân Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình Phật bèn dụng phạm thinh sáu món Phân rõ cùng Đại chúng lóng nghe Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề Không phương báo đáp cho vừa sức đâu! Ví có người ơn sâu dốc trả Cõng mẹ cha tất cả hai vai Giáp vòng hòn núi tu di Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền Ví có người gặp cơn đói rét Nuôi song thân dâng hết thân này Xương nghiền thịt nát phân thây Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng Ví có người vì công sanh dưỡng Tự tay mình khoét thủng song ngươi Chịu thân mù tối như vầy Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu Ví có người cầm dao thật bén Mỗ bụng ra, rút hết tâm can Huyết ra khắp đất chẳng than Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng Ví có người dùng ngàn mũi nhọn Đâm vào mình bất luận chỗ nào Tuy là sự khó biết bao Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền Ví có người vì ơn dưỡng dục Tự treo mình cúng Phật thế đèn Cứ treo như vậy trọn năm Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền Ví có người xương nghiền ra mỡ Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình Xương tan thịt nát chẳng phiền Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng Ví có người vì công dưỡng dục Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan Làm cho thân thể tiêu tan Đến trăm ngàn kiếp ơn sâu chưa đền Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn Đồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng thâm ân song đường? Phật mới bảo các hàng Phật tử Phải lóng nghe ta chỉ sau này Các ngươi muốn đáp ơn dày Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn những tội lỗi xưa Cúng dường Tam Bảo sớm trưa Cùng là tu phước chẳng chừa món chi Rằm tháng bảy đến ngày Tự Tứ Thập phương Tăng đều dự lễ này Sắm sanh lễ vật đủ đầy Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng Đặng cầu nguyện song đường trường thọ Hoặc sanh về tịnh độ an nhàn Ấy là báo đáp thù ân Sanh thành dưỡng dục song thân của mình Mình còn phải cần chuyên trì giới Pháp tam quy ngũ giới giữ gìn Những lời ta dạy đinh ninh Khá tua y thử phụng hành đừng sai Được như vậy mới là khỏi tội Bằng chẳng thì ngục tối phải sa Trong năm đại tội kể ra Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay Sau khi chết bị đầy vào ngục Ngục vô gián, cũng gọi A Tỳ Ngục này trong núi Thiết vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề Trong ngục này hàng ngày lửa cháy Đốt tội nhân hết thảy thành than Có lò nấu sắt cho tan Rót vào trong miệng tội nhân hành hình Một vá đủ cho người thọ khổ Lột thịt da đau thấu tâm can Lại có chó sắt, rắn gang Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn Ở trong ngục có giường bằng sắt Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong Rồi cho một ngọn lửa hồng Nướng quay kẻ tội da phòng thịt thau Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo Trên không trung đổ tháo như mưa Gặp ai chém náy chẳng chừa Làm cho thân thể nát nhừ như tương Những hình phạt vô phương kể hết Mỗi ngục đều có cách trị riêng Như là xe sắt phân thây Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le Chớ chi đặng chết liền rất đỡ Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân Ngày đêm chết sống muôn lần Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây Sự hành phạt tại A Tỳ ngục Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần Thừa hành các việc phân trần khoản trên Nhứt là phải kinh này in chép Truyền bá ra cho khắp đông tây Như ai chép một quyển nầy Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh Lại hóa sanh về cảnh thiên cung Khi lời Phật giảng vừa xong Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng Lại phát nguyện thà thân này nát Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài Dầu cho lưỡi kéo trâu cày Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên Ví như bị bá thiên đao kiếm Khắp thân này đâm chém phân thây Hoặc như lưới trói thân này Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai Dầu thân này bị cưa bị chặt Phân chia ra muôn đoạn rã rời Đến trăm ngàn kiếp như vầy Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh Ngày sau truyền bá chúng sanh Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành Phật mới bảo A Nan nên biết Quyển kinh này quả thiệt cao xa Đặt tên “Báo Hiếu Mẹ Cha” Cùng là “Ân Trọng ” thiệt là chơn kinh Các ngươi phải giữ gìn châu đáo Đặng đời sau y giáo phụng hành Sau khi Phật dạy rành rành Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui Thảy một lòng vâng theo lời Phật Và kính thành tin chắc vẹn truyền Đồng nhau tựu tại Phật tiền Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra Theo quan điểm của nhân tướng học, đàn ông mà sở hữu những nét tướng này thường bôn ba, vất vả, cả đời kiếm tiền chật vật. Cung Tài lộc có nốt ruồi hoặc bớt Theo nhân tướng học, Cung Tài lộc nằm ở vị trí trán hướng thẳng về phía sống mũi, trên vùng lông mày. Đàn ông sở hữu hữu cung Tài Lộc có một cái bớt đen hoặc nốt ruồi sẽ phá huỷ vận may của người đó. Dù tài ba đến mấy, siêng năng chăm chỉ làm ăn ra sao, người đàn ông cũng không thể khấm khá. Đây là một trong những nét tướng mặt đàn ông nghèo hèn chị em nên cân nhắc khi lựa chọn vị hôn phu của đời mình. Lông mày hỗn loạn, đậm, đường lông mày không rõ ràng Người có lông mày như thế này lại có thêm cặp mắt hung dữ có số mệnh nghèo khó, không thể làm nên nghiệp lớn. Tuýp người này sở hữu tính cách nông nổi và bốc đồng, làm việc lúc nào cũng đơn thương độc mã, không cân nhắc hậu quả trước sau. Họ sẵn sàng vì lợi ích của bản thân mà phản bội, hãm hại bạn bè. Muốn làm nên cơ nghiệp là chuyện cực kì khó khăn bởi đây là nét tướng hại người hại cả thân. Mũi thấp, hếch lên Đàn ông sở hữu nét tướng này là nét tướng tiểu nhân, sống chi li, tính toán, do đó, cuộc sống nghèo khổ, cơ cực. Ngoài ra, tuýp người này tâm không chính, thường lợi dụng sự thông minh, láu cá của mình để lừa người khác. Vì thế, tiền tài, danh vọng khó đến được với những người này. Dái tai nhỏ Đàn ông sở hữu dái tai nhỏ thường hay lo lắng, muộn phiền, sợ hãi những điều sắp tới. Họ cũng thuộc tuýp người nhút nhát và thiếu dũng khí, chẳng dám làm điều gì liều lĩnh. Vì thế, công danh chẳng đáng kể, có kiếm được đồng tiền cũng phải bôn ba, lao tâm khổ tứ vất vả. Miệng mỏng, trễ Miệng quyết định khả năng diễn đạt của bản thân. Đàn ông miệng to nhưng môi lại mỏng thì dục vọng nhiều song lại thiếu lòng đồng cảm, hay nói lời cay nghiệt, phê phán người khác không thương tiếc ngay trước mặt, sau lưng lại thích buôn chuyện, bàn tán về chuyện riêng tư của người khác, không được ai quý mến. Thêm vào đó, nếu người này khóe miệng trễ xuống thì đó là tướng lộ tài, bao nhiêu phúc khí, tài khí đều theo đó mà trôi hết ra ngoài, khiến cho người này tài lộc ít ỏi, tiền bạc thiếu thốn. Xương mặt to, da mặt mỏng Đàn ông sở hữu xương mặt to, da mặt mỏng, khô là kẻ phá tán tiền của trong nhà, nghèo khổ, không sống lâu, cả đời vất vả cũng không giàu. Nếu khí sắc trên mặt mờ tối như than bụi có thể sẽ phải bỏ mạng nơi phương xa. Đôi mắt không cân đối, nhiều lòng trắng Đàn ông có nét tướng này thường không đáng tin cậy, tráo trở, lười nhác. Tướng đàn ông có mắt nhỏ ti hí này tính tình keo kiệt, đa nghi, số cơ cực bần hàn. Theo Khoevadep Xem link gốc Ẩn link gốc Kinh Vu Lan Báo Hiếu - Thích Trí Thoát Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vậy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra đến số hai muôn tám ngàn Lại cũng có các hàng Bồ Tát Hội tại đây đủ mặt thường thường Bấy giờ Phật lại lên đường Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành Đáo bán lộ đành rành mắt thấy Núi xương khô bỏ đấy lâu đời Thế Tôn bèn vội đến nơi Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng Đức A Nan trong lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương Vội vàng xin Phật dạy tường Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao thầy lại lạy xương khô Phật rằng trong các môn đồ Người là đệ tử đứng đầu dày công Bởi chưa biết đục trong chưa rõ Nên vì người ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài Chắc cũng có ông bà cha mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây Ta lễ bái những người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa Đống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi Người chịu khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam Để cho phân biệt cốt phàm Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng Đức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai Ngài bèn xin Phật tỏ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân Phật mới bảo A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng Đàn ông xương trắng nặng quằn Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn Người có biết cớ sao đen nhẹ? Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra Sanh con ba đấu huyết ra Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con Vì cớ ấy hao mòn thân thể Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai A Nan nghe vậy bi ai Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo Phương pháp nào báo hiếu song thân Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con mười tháng cưu mang Tháng đầu, thai đậu tợ sương Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường Tháng thứ nhì dường như sữa đặc Tháng thứ ba như cục huyết ngưng Bốn tháng đã tượng ra hình Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng Tháng thứ sáu lục căn đều đủ Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương Lại thêm đủ lỗ chân lông Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ Chín tháng thì đầy đủ vóc hình Mười tháng là đúng kỳ sanh Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung Làm cho cha mẹ hãi hùng Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc Cũng ví như được bạc được vàng Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay Thứ tư ăn đắng nuốt cay Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con Điều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con Thứ sáu, sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng màng gớm ghê Điều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền Thứ tám chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo Điều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm Điều thứ mười chẳng ham chau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn Thương con như ngọc như vàng Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn! Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người Mười phần mê muội cả mười Không tường ơn trọng đức dày song thân Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao Ấy là bất hiếu mạc dao Thì những người ấy đời nào nên thân Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết đầm đề Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan Con còn nhỏ phải năng chăm sóc Ăn đắng cay bùi ngọt phần con Phải tắm, phải giặt, rửa trôn Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì Nằm phía ướt con nằm phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình Chắc còn phải chịu trăm phần thảm thương Trọn ba năm bú nương sữa mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con Đến khi vừa được lớn khôn Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng Cho đi học mở thông trí tuệ Dựng vợ chồng có thể làm ăn Ước mong con được nên thân Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi Con ốm đau tức thì lo chạy Dầu tốn hao cách mấy cũng đành Khi con căn bệnh đặng lành Thì cha mẹ mới an tâm định thần Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang Hờn cha mẹ phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi Bà con chẳng kể ra chi Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng Trái ngang chóng báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn Lớn lên theo lối hung hăng Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ TTCT - Nhân tháng Vu lan báo hiếu, nhắc lại kiến thức của Phật về xương, về người mẹ và căn bệnh âm thầm có tên là loãng xương. Loãng xương là vấn đề đáng quan tâm vì bệnh liên quan đến nhiều hệ quả. Phóng to Sau độ tuổi 60, mật độ xương ở nữ giới thấp hơn nam đến 17% - Ảnh Lần đầu tiên tôi tiếp cận kiến thức của Phật về xương hình như là hơn 15 năm trước. Dạo đó, tôi chở bà nhạc đi chùa, và cũng tham gia với các phật tử khác tụng Kinh báo hiếu. Có lẽ hơi khác với các phật tử đang thả hồn vào lời kinh, tôi chú ý đến đoạn Đức Phật giảng về xương, mà theo kiến thức của y học hiện đại ngày nay là chính xác. Đức Phật lý giải về xương Theo Kinh báo hiếu, trong một chuyến đi hoằng pháp của Đức Phật, Ngài và đoàn tùy tùng đi ngang qua một đống xương khô cao như núi. Đức Phật quỳ xuống lạy đống xương. Vị tôn giả tên là A Nan ngạc nhiên hỏi sao Phật làm như thế, và Ngài giải thích rằng Ngài lạy ông, bà, cha, mẹ, hay nói chung là những bậc tiền nhân. Đức Phật bèn bảo A Nan nên sắp xếp đống xương cho thứ tự, nam nữ để riêng ra, chứ hỗn độn như thế thì rất không phải. Tôn giả A Nan hỏi làm sao biết xương nào của nam giới và xương nào của nữ giới. Đức Phật giải thích rằng việc phân biệt cũng không khó vì trọng lượng xương của nam cao hơn nữ. Ngài còn suy luận rằng sở dĩ trọng lượng xương của nữ thấp hơn nam là vì người nữ phải mang nặng đẻ đau, mất máu và mất sữa cho con bú. Nguyên văn những câu kinh liên quan là như sau Nhân ngày lễ Vu lan, đọc lại những lời Kinh báo hiếu để thấy sự thông tuệ của Đức Phật, và để nhắc nhở chúng ta về sự mang nặng đẻ đau và hi sinh của những bà mẹ. Nhìn nhận những sự thật này cũng là một cách để chúng ta hiểu rằng chính chúng ta - những người con - mang hình hài của mẹ là một phần của nguyên nhân dẫn đến loãng xương cho mẹ. Phật mới bảo A Nan nên biếtXương nữ nam phân biệt rõ ràngàn ông xương trắng nặng hoằngàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?Bởi đàn bà sanh đẻ mà raSanh con ba đấu huyết raTám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con. Nên nhớ rằng những suy luận này chẳng biết tôi dùng từ “suy luận” có đúng không nữa đã được phát biểu từ hơn năm trước. Ở thời điểm đó thì chắc chắn không có thiết bị y khoa để đo lường xương mà so sánh nặng hay nhẹ. Vậy chúng ta thử “kiểm định” xem những gì Đức Phật suy luận có đúng với thực tế hay không. Mật độ xương Ngày nay, với phương tiện vật lý như máy hấp thu hai tia năng lượng - dual energy X ray absorptiometry hay DXA, chúng ta có thể đo lường được lượng chất khoáng trong xương bone mineral content. Lượng này thường được tính bằng gam. Nhưng để so sánh hai nhóm một cách khách quan, chúng ta cần phải tính lượng chất khoáng trên diện tích xương hoặc thể tích xương. Diện tích vùng xương được đo thường được mô tả bằng centimet vuông cm2. Lấy lượng chất khoáng trong xương chia cho diện tích xương, chúng ta có chỉ số có tên là “bone mineral density” mật độ chất khoáng trong xương, nhưng quen gọi tắt là mật độ xương với đơn vị đo lường là gam/cm2. Những xương quan trọng thường là xương cột sống và xương đùi, vì đây là những nơi xương hay bị gãy. Gần đây, chúng tôi đã đo mật độ xương trên nam và nữ ở Kết quả cho thấy nữ có mật độ xương thấp hơn nam. Nhưng sự khác biệt còn tùy thuộc độ tuổi. Ở độ tuổi 20-30, tính trung bình, mật độ xương đùi ở nữ giới thấp hơn nam giới khoảng 5%. Nhưng sau độ tuổi 60, mật độ xương ở nữ giới thấp hơn nam đến 17%. So với độ tuổi 20-30, mật độ xương ở nữ tuổi 60 trở lên mất gần 40%. Như vậy, bằng tuệ giác của mình, Đức Phật đã suy đoán đúng rằng nữ có trọng lượng xương thấp hơn nam. Vai trò của estrogen Tại sao ở độ tuổi 60 trở lên nữ có mật độ xương thấp hơn nam? Có nhiều nguyên nhân cho sự suy giảm mật độ xương ở nữ. Một trong những lý giải được nhiều người chấp nhận nhất và có chứng cứ khoa học nhất là do suy giảm hormone giới tính estrogen. Estrogen là một hormone đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết quy trình chuyển hóa xương. Quy trình này rất phức tạp, với sự “tham gia” của hai nhóm tế bào tạo xương và hủy xương. Khi các tế bào tạo xương hoạt động tích cực hơn các tế bào hủy xương, chất khoáng trong xương được tạo ra; ngược lại, khi các tế bào hủy xương hoạt động tích cực hơn tế bào tạo xương thì chất khoáng trong xương bị suy giảm. Nồng độ estrogen trong cơ thể có chức năng ức chế các tế bào hủy xương bằng cách ngăn chặn một enzyme có tên là caspase-3. Do đó, ở nữ giới, người có nồng độ estrogen cao thường là những người có mật độ xương tốt. Có ba loại estrogen chính là estradiol, estrone và estriol. Nhưng estradiol có ý nghĩa lâm sàng hơn hai loại kia. Ở nữ, estradiol chủ yếu được sản sinh từ buồng trứng; ở nam, estradiol được chuyển hóa từ testosterone chú ý rằng testosterone là hormone nam tính. Do đó, nồng độ estrogen có thể đo từ máu, và từ kết quả xét nghiệm có thể biết được một cá nhân thiếu hay đủ estrogen. Nồng độ estradiol trong máu ở nam và nữ có xu hướng biến chuyển rất khác nhau. Ở nam, nồng độ estradiol chỉ dao động trong khoảng 20 pg/mL và hầu như không suy giảm theo độ tuổi. Tuy nhiên, ở nữ Việt Nam, nồng độ estradiol trong độ tuổi xuân thì khoảng 90 pg/mL, nhưng đến tuổi sau mãn kinh tức sau 50 tuổi thì giảm xuống chỉ còn 12 pg/mL, đến tuổi 60 trở lên chỉ còn 7,5 pg/mL. Sự suy giảm estradiol ở nữ giới sau thời kỳ mãn kinh hay sau độ tuổi sinh sản cũng có nghĩa là sự trỗi dậy của các tế bào hủy xương, dẫn đến sự suy giảm mật độ xương ở nữ giới. Ngoài estrogen, còn có vài yếu tố khác liên quan đến quá trình sinh sản cũng làm cho xương của phụ nữ suy giảm. Sự suy giảm xương của người mẹ xảy ra ngay trong thời gian mang thai. Trong thời gian này, nhất là ba tháng đầu thai kỳ, bào thai cần calcium để phát triển bộ xương, và nguồn calcium phải đến từ người mẹ. Mặc dù trong thời gian mang thai, nồng độ estradiol tăng cao nhưng mật độ xương của người mẹ vẫn bị suy giảm, một phần là do chuyển calcium từ mẹ sang con. Trong thời gian bà mẹ cho con bú sữa mẹ mật độ xương cũng suy giảm. Một số nghiên cứu trên những bà mẹ ở nước ngoài cho thấy trong thời kỳ này, mật độ xương của người mẹ giảm khoảng 3-9%, đặc biệt là xương cột sống và xương đùi. Cho con bú sữa mẹ cũng có nghĩa là chia sẻ calcium một chất khoáng quan trọng trong xương cho đứa con. Tuy nhiên, sau đó mật độ xương có vẻ “khôi phục” bình thường lại. Do đó, thường thường không phải tất cả những bà mẹ có nhiều con cũng là những người có mật độ xương suy giảm. Điểm qua những sự thật trên, chúng ta thấy nữ giới có mật độ xương thấp hay nói theo ngôn ngữ của Phật là trọng lượng xương thấp hơn nam là do ba yếu tố chính suy giảm estradiol trong máu, chuyển calcium cho bào thai trong lúc mang thai, và chuyển calcium cho con sau khi sinh con. Như vậy, suy luận của Đức Phật về sự mất máu và sinh sản dẫn đến suy giảm trọng lượng xương ở nữ cũng hoàn toàn đúng. Hệ quả giảm mật độ xương Suy giảm mật độ xương có ý nghĩa quan trọng đến sức khỏe của xương. Mật độ xương càng thấp, nguy cơ bị gãy xương càng cao. Do đó, mật độ xương đo bằng máy DXA được dùng để chẩn đoán loãng xương. Mật độ xương ở những người trên 50 tuổi được so sánh với mật độ xương lúc 20-30 tuổi, và thể hiện bằng một chỉ số có tên là “chỉ số T” thuật ngữ tiếng Anh là T-score. Trong thực tế, chỉ số T được tính toán bằng cách lấy mật độ xương của một cá nhân trừ cho mật độ xương lúc 20-30 tuổi và chia kết quả cho độ lệch chuẩn. Khi chỉ số T của một cá nhân trên 50 tuổi bằng hoặc thấp hơn thì được chẩn đoán là “loãng xương”. Dùng tiêu chuẩn chẩn đoán trên, chúng tôi có thể đánh giá quy mô loãng xương ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của chúng tôi tại và Hà Nội, ở những người trên 50 tuổi, cứ 10 người nữ thì khoảng 3 người bị loãng xương; ở nam, cứ 10 người thì 1 người bị loãng xương. Dùng số liệu dân số của Việt Nam năm 2010, chúng tôi ước tính hiện nay có khoảng 2 triệu nữ và nửa triệu nam trên 50 tuổi đang trong tình trạng loãng xương. Những người loãng xương có nguy cơ bị gãy xương tăng gấp 2-3 lần so với người có mật độ xương bình thường. Gãy xương, nhất là gãy cổ xương đùi, là một biến cố quan trọng trong một đời người. Bị gãy xương một lần làm tăng nguy cơ gãy xương lần thứ hai, và nguy cơ tử vong. Khoảng 15-20% bệnh nhân gãy cổ xương đùi tử vong trong vòng 12 tháng. Ở nữ, nguy cơ gãy cổ xương đùi tương đương với nguy cơ ung thư vú. Rất ít người biết rằng nguy cơ tử vong vì gãy cổ xương đùi cũng bằng hoặc cao hơn nguy cơ tử vong vì ung thư vú. Hiện nay, có một số thuốc có thể sử dụng để điều trị loãng xương, giảm nguy cơ gãy xương, và một vài thuốc còn giảm nguy cơ tử vong vì gãy xương. Nói tóm lại, loãng xương ở nữ giới cao hơn nam giới, do mật độ xương ở nữ thấp hơn nam. Loãng xương ở nữ giới là một hệ quả của suy giảm estrogen khi về già, chuyển giao calcium cho người con trong khi mang thai và sau khi sinh con. Những khía cạnh này đã được Đức Phật đề cập đến hơn năm trước! ____________ Số liệu trong bài này có thể tham khảo từ hai công trình chính sau đây 1 Hồ Phạm Thục Lan và đồng nghiệp, “Reference ranges for bone mineral density and prevalence of osteoporosis in Vietnamese men and women” công bố trên tập san BMC Musculoskeletal Disorders 2011. 2 Nguyễn Thị Thanh Hương, “Peak bone mineral density in Vietnamese women”, công bố trên tập san Archives of Osteoporosis 2009. Tags Loãng xươngHệ quảĐức PhậtEstrogenCăn bệnh âm thầm . Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra đến số hai muôn tám ngàn. Lại cũng có các hàng Bồ tát Hội tại đây đủ mặt thường thường Bấy giờ Phật lại lên đường Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành. áo bán lộ đành rành mắt thấy Núi xương khô bỏ đấy lâu đời Thế Tôn bèn vội đến nơi Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng. ức A Nan trong lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương Vội vàng xin Phật dạy tường “...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao Thầy lại lạy xương khô? Phật rằng trong các môn đồ Người là đệ tử đứng đầu dày công. Bởi chưa biết đục trong chưa rõ Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu, ống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài. Chắc cũng có ông bà cha mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây. Ta lễ bái kỉnh người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. ống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi. Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam. ể cho phân biệt cốt phàm Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. ức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai. Ngài bèn xin Phật tỏ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này. Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh, Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân. Phật mới bảo A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng àn ông xương trắng nặng quằn àn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Người có biết cớ sao đen nhẹ Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra, Sanh con ba đấu huyết ra Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con. Vì cớ ấy hao mòn thân thể Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai. A Nan nghe vậy bi ai Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh. Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo Phương pháp nào báo hiếu song thân. Thế Tôn mới bảo lời rằng Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang. Tháng đầu, thai đậu tợ sương Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường Tháng thứ nhì dường như sữa đặc Tháng thứ ba như cục huyết ngưng Bốn tháng đã tượng ra hình Năm tháng ngũ thể 1 hiện sanh rõ ràng Tháng thứ sáu lục căn 2 đều đủ Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương Lại thêm đủ lỗ chân lông Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ Chín tháng thì đầy đủ vóc hình Mười tháng là đến kỳ sanh Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung Làm cho cha mẹ hãi hùng Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc Cũng ví như được bạc được vàng Thế Tôn lại bảo A Nan Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin iều thứ nhất giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề Thứ hai sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần iều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay Thứ tư ăn đắng nuốt cay ể dành bùi ngọt đủ đầy cho con iều thứ năm lại còn khi ngủ Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con Thứ sáu, sú nước nhai cơm Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê iều thứ bảy không chê ô uế Giặt đồ dơ của trẻ không phiền Thứ tám chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo iều thứ chín miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm iều thứ mười chẳng ham chau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn Thương con như ngọc như vàng Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn Phật lại bảo A Nan nên biết Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người Mười phần mê muội cả mười Không tường ơn trọng đức dày song thân Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao Ấy là bất hiếu mặc giao Thì những người ấy đời nào nên thân Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan Con còn nhỏ phải năng chăm sóc Ăn đắng cay bùi ngọt phần con Phải tắm, phải giặt, rửa trôn Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì Nằm phía ướt con thì phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương Trọn ba năm bú nương sữa mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con ến khi vừa được lớn khôn Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng Cho đi học mở thông trí tuệ Dựng vợ chồng có thể làm ăn Ước mong con được nên thân Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi Con đau ốm tức thì lo chạy Dầu tốn hao cách mấy cũng đành Khi con căn bệnh đặng lành Thì cha mẹ mới an tâm định thần Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi Bà con chẳng kể ra chi Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng Trái ngang chóng báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn Lớn lên theo lối hung hăng ã không nhẫn nhịn lại càng hành hung Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ Nết tập quen làm sự trái ngang Nghe lời dụ dỗ quân hoang Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người Trước còn tập theo thời theo thế Thân lập thân tìm kế sanh nhai Hoặc đi buôn bán kiếm lời Hoặc vào quân lính với đời lập công Vì ràng buộc đồng công mối nợ Hoặc trở ngăn vì vợ vì con Quên cha quên mẹ tình thâm Quên xứ quên sở lâu năm không về Ấy là nói những người có chí Chớ phần nhiều du hý mà thôi Sau khi phá hết của rồi Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài Theo trộm cướp hoặc là bài bạc Phạm tội hình, tù ngục phải vương Hoặc khi mang bệnh giữa đường Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng Hay tin dữ, bà con cô bác Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu Thương con than khóc ưu sầu Có khi mang bệnh đui mù vấn vương Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn Hoặc nghe con chẳng lo lường Trà đình tửu điếm phố phường ngao du Cứ mài miệt với đồ bất chánh Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang Làm cho cha mẹ than van Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều Ốm đau đói rách kêu rêu Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương Phận con gái còn nương cha mẹ Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa Cần lao phục dịch trong nhà Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi Song đến lúc tùng phu xuất giá Lo bên chồng chẳng xá bên mình Trước còn lai vãng viếng thăm Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà Quên dưỡng dục song thân ơn trọng Không nhớ công mang nặng đẻ đau Chẳng lo báo bổ cù lao Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay Nếu cha mẹ rầy la quở mắng Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng Chớ chi chồng đánh liên miên Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ Nói không cùng nghiệp dữ phải mang Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi ập vào mình, vào mũi vào hông Làm cho các lỗ chân lông Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân ến hôn mê tâm thần bất định Một giây lâu mới tỉnh than rằng Bọn ta quả thiệt tội nhơn Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc Ruột gan dường như nát như tan Tội tình khó nỗi than van Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu Trước Phật tiền ai cầu trần tố Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân Làm sao báo đáp thù ân Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình Phật bèn dụng phạm thinh sáu món Phân rõ cùng ại chúng lóng nghe Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề Không phương báo đáp cho vừa sức đâu Ví có người ơn sâu dốc trả Cõng mẹ cha tất cả hai vai Giáp vòng hòn núi Tu di ến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền Ví có người gặp cơn đói rét Nuôi song thân dâng hết thân này Xương nghiền thịt nát phân thây Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng Ví có người vì công sanh dưỡng Tự tay mình khoét thủng song ngươi Chịu thân mù tối như vầy ến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu Ví có người cầm dao thật bén Mổ bụng ra, rút hết tâm can Huyết ra khắp đất chẳng than ến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng Ví có người dùng ngàn mũi nhọn âm vào mình bất luận chỗ nào Tuy là sự khó biết bao Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền Ví có người vì ơn dưỡng dục Tự treo mình cúng Phật thế đèn Cứ treo như vậy trọn năm Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền Ví có người xương nghiền ra mỡ Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình Xương tan thịt nát chẳng phiền ến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng Ví có người vì công dưỡng dục Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan Làm cho thân thể tiêu tan ến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn ồng thinh bạch Phật lời rằng Làm sao trả đặng thâm ân song đường? Phật mới bảo các hàng Phật tử Phải lóng nghe ta chỉ sau này Các ngươi muốn đáp ơn dày Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng Cùng ăn năn những tội lỗi xưa Cúng dường Tam bảo sớm trưa Cùng là tu phước chẳng chừa món chi Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ Thập phương Tăng đều dự lễ này Sắm sanh lễ vật đủ đầy Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng ặng cầu nguyện song đường trường thọ Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn Ấy là báo đáp thù ân Sanh thành dưỡng dục song thân của mình Mình còn phải cần chuyên trì giới Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn Những lời ta dạy đinh ninh Khá tua y thử phụng hành đừng sai ược như vậy mới là khỏi tội Bằng chẳng thì ngục tối phải sa Trong năm đại tội kể ra Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay Sau khi chết bị đầy vào ngục Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ Ngục này trong núi Thiết vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề Trong ngục này hàng ngày lửa cháy ốt tội nhân hết thảy thành than Có lò nấu sắt cho tan Rót vào trong miệng tội nhân hành hình Một vá đủ cho người thọ khổ Lột thịt da đau thấu tâm can Lại có chó sắt, rắn gang Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn Ở trong ngục có giường bằng sắt Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong Rồi cho một ngọn lửa hồng Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo Trên không trung đổ tháo như mưa Gặp ai chém nấy chẳng chừa Làm cho thân thể nát nhừ như tương Những hình phạt vô phương kể hết Mỗi ngục đều có cách trị riêng Như là xe sắt phân thây Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le Chớ chi đặng chết liền rất đỡ Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân Ngày đêm chết sống muôn lần ến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây Sự hành phạt tại A tỳ ngục Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân Chúng ngươi đều phải ân cần Thừa hành các việc phân trần khoảng trên Nhứt là phải kinh này in chép Truyền bá ra cho khắp đông tây Như ai chép một quyển này Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh Lại hóa sanh về cảnh thiên cung Khi lời Phật giảng vừa xong Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng Lại phát nguyện thà thân này nát Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài Dầu cho lưỡi kéo trâu cày ến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên Ví như bị bá thiên đao kiếm Khắp thân này đâm chém phân thây Hoặc như lưới trói thân này Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai Dầu thân này bị cưa bị chặt Phân chia ra muôn đoạn rã rời ến trăm ngàn kiếp như vầy Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên ức A Nan kiền thiền đảnh lễ Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh Ngày sau truyền bá chúng sanh Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành Phật mới bảo A Nan nên biết Quyển kinh này quả thiệt cao xa ặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha" Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn kinh Các ngươi phải giữ gìn châu đáo ặng đời sau y giáo phụng hành Sau khi Phật dạy rành rành Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui Thảy một lòng vâng theo lời Phật Và kính thành tin chắc vẹn truyền ồng nhau tựu tại Phật tiền Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.

đàn ông xương trắng nặng quằn